Ngày
25/4/2013, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 45/2013/TT-BTC hướng dẫn chế độ
quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định (TSCĐ), thay thế Thông tư số
203/2009/TT-BTC ngày 20/10/2009. Điểm nhấn căn bản của Thông tư này thu hút sự
quan tâm của các doanh nghiệp là tất cả TSCĐ của doanh nghiệp đều phải trích
khấu hao. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/6/2013 và áp dụng từ năm tài
chính 2013.
Tải các văn bản có trong bài viết:
Yêu
cầu từ thực tiễn
Từ khi có Thông tư số 203/2009/TT-BTC ngày
20/10/2009, công tác quản lý TSCĐ, đã mang lại nhiều kết quả tích cực, từng
bước đưa doanh nghiệp (DN) đi vào nề nếp, tuân thủ đúng các quy định của Nhà
nước về sử dụng và trích khấu hao TSCĐ do DN quản lý.
Tuy nhiên, trong quản lý, sử dụng và trích khấu hao
TSCĐ vẫn cần có những thay đổi để phù hợp với thực tiễn hiện nay. Ngày
25/4/2013, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 45/2013/TT-BTC hướng dẫn chế độ
quản lý, sử dụng và trích khấu TSCĐ thay thế Thông tư số 203/2009/TT-BTC.
Để thực hiện đúng các quy định của Nhà nước về việc
quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ tại các DN, yêu cầu đặt ra đối với
người quản lý DN nói chung và người làm công tác kế toán nói riêng, ngoài việc
nắm vững các quy định hướng dẫn cần hiểu rõ bản chất của các loại tài sản, đặc
biệt là TSCĐ.
TSCĐ là tư liệu lao động tham gia vào nhiều chu kỳ
sản xuất, kinh doanh của DN; là những tài sản có giá trị lớn, tham gia quá
trình sản xuất, kinh doanh và đã chuyển dần giá trị tài sản vào giá thành sản
phẩm. Do đó, DN phải thực hiện trích khấu hao TSCĐ để thu hồi vốn và tái tạo
TSCĐ mới phục vụ cho kỳ sản xuất, kinh doanh tiếp theo.
Tiêu chuẩn, nhận biết TSCĐ hữu hình là những tài sản
có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên
kết với nhau để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định, nếu thiếu
bất kỳ bộ phận nào thì cả hệ thống không thể hoạt động được.
Tài sản đó phải thỏa mãn 3 tiêu chuẩn: Chắc chắn thu
được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó; có thời gian
sử dụng hơn 1 năm trở lên; nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin
cậy và có giá trị từ 30 triệu đồng trở lên.
Trường hợp 1 hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản
riêng lẻ liên kết nhau, trong đó mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng
khác nhau và nếu thiếu 1 bộ phận nào đó mà cả hệ thống vẫn thực hiện chức năng
hoạt động chính, nhưng do yêu cầu quản lý, sử dụng TSCĐ đòi hỏi phải quản lý
riêng từng bộ phận tài sản thì mỗi bộ phận nếu thỏa mãn 3 tiêu chuẩn nêu trên
được coi là một TSCĐ hữu hình độc lập. Đối với súc vật làm việc hoặc cho sản
phẩm, vườn cây lâu năm thì từng con súc vật, mảnh vườn cây, hoặc cây thỏa mãn
đồng thời 3 tiêu chuẩn của TSCĐ được coi là một TSCĐ hữu hình.
Tiêu chuẩn, nhận biết TSCĐ vô hình là mọi khoản chi
phí thực tế DN đã chi ra, thỏa mãn đồng thời 3 tiêu chuẩn TSCĐ mà không hình
thành TSCĐ hữu hình được coi là TSCĐ vô hình. Những khoản chi phí không đồng
thời thỏa mãn 3 tiêu chuẩn trên thì được hạch toán trực tiếp hoặc được phân bổ
dần vào chi phí kinh doanh của DN.
Riêng các chi phí phát sinh trong giai đoạn triển
khai được ghi nhận là TSCĐ vô hình nếu thỏa mãn đồng thời 7 điều kiện: Tính khả
thi về mặt kỹ thuật đảm bảo việc hoàn thành và đưa tài sản vô hình vào sử dụng
theo dự tính hoặc để bán; DN dự định hoàn thành tài sản vô hình để sử dụng hoặc
để bán; DN có khả năng sử dụng hoặc bán tài sản vô hình đó; tài sản vô hình đó
phải tạo ra được lợi ích kinh tế trong tương lai; có đầy đủ các nguồn lực về kỹ
thuật, tài chính và nguồn lực khác để hoàn tất cả các giai đoạn triển khai, bán
hoặc sử dụng tài sản vô hình đó; có khả năng xác định một cách chắc chắn toàn
bộ chi phí trong giai đoạn triển khai để tạo ra tài sản vô hình đó; ước tính có
đủ tiêu chuẩn về thời gian sử dụng và giá trị theo quy định cho TSCĐ vô hình.
Một
số điểm nhấn cần chú ý
Căn cứ mục đích sử dụng, DN tiến hành phân loại TSCĐ
theo các chỉ tiêu sau: TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh; TSCĐ dùng cho mục
đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng; TSCĐ bảo quản hộ, giữ hộ, cất
giữ hộ. Tuỳ theo yêu cầu quản lý của từng DN, DN tự phân loại chi tiết hơn các
TSCĐ của DN trong từng nhóm cho phù hợp.
Về nguyên tắc, mọi TSCĐ trong DN phải có bộ hồ sơ
riêng (gồm biên bản giao nhận, hợp đồng, hoá đơn mua và các chứng từ, giấy tờ
khác có liên quan). Mỗi TSCĐ phải được phân loại, đánh số và có thẻ riêng, được
theo dõi chi tiết theo từng đối tượng ghi TSCĐ và được phản ánh trong sổ theo
dõi. Mỗi TSCĐ phải được quản lý theo nguyên giá, số hao mòn luỹ kế và giá trị
còn lại trên sổ sách kế toán:
Giá trị còn lại trên sổ kế toán của TSCĐ = Nguyên
giá của TSCĐ - Số hao mòn luỹ kế của TSCĐ
Đối với những TSCĐ không cần dùng, chờ thanh lý
nhưng chưa hết khấu hao, DN phải thực hiện quản lý, theo dõi, bảo quản theo quy
định hiện hành và trích khấu hao theo quy định tại Thông tư này.
Các chi phí DN chi ra để đầu tư nâng cấp TSCĐ được
phản ánh tăng nguyên giá của TSCĐ đó, không được hạch toán các chi phí này vào
chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Các chi phí sửa chữa TSCĐ không được tính
tăng nguyên giá TSCĐ mà được hạch toán trực tiếp hoặc phân bổ dần vào chi phí
kinh doanh trong kỳ, nhưng tối đa không quá 3 năm.
Khấu hao TSCĐ là việc tính toán và phân bổ một cách
có hệ thống nguyên giá của TSCĐ vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong thời gian
trích khấu hao của TSCĐ. Tất cả TSCĐ hiện có của DN đều phải trích khấu hao,
trừ một số TSCĐ quy định tại khoản 1 Điều 9 của Thông tư này. Các khoản chi phí
khấu hao TSCĐ được tính vào chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập DN thực hiện
theo quy định tại các văn bản pháp luật về thuế thu nhập DN. DN cho thuê TSCĐ
hoạt động phải trích khấu hao đối với TSCĐ cho thuê.
Trường hợp đánh giá lại giá trị TSCĐ đã hết khấu hao
để góp vốn, điều chuyển khi chia tách, hợp nhất, sáp nhập thì các TSCĐ này phải
được các tổ chức định giá chuyên nghiệp xác định giá trị nhưng không thấp hơn
20% nguyên giá tài sản đó. Thời điểm trích khấu hao đối với những tài sản này
là thời điểm DN chính thức nhận bàn giao đưa tài sản vào sử dụng và thời gian
trích khấu hao từ 3 đến 5 năm. Thời gian cụ thể do DN quyết định nhưng phải
thông báo với cơ quan thuế trước khi thực hiện.
Đối với các DN thực hiện cổ phần hóa, thời điểm
trích khấu hao của các TSCĐ nói trên là thời điểm DN được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh chuyển thành công ty cổ phần.
Các DN 100% vốn nhà nước thực hiện xác định giá trị
DN để cổ phần hoá theo phương pháp dòng tiền chiết khấu (DCF) thì phần chênh
lệch tăng của vốn nhà nước giữa giá trị thực tế và giá trị ghi trên sổ sách kế
toán không được ghi nhận là TSCĐ vô hình và được phân bổ dần vào chi phí sản
xuất kinh doanh trong kỳ nhưng thời gian không quá 10 năm. Thời điểm bắt đầu
phân bổ vào chi phí là thời điểm DN chính thức chuyển thành công ty cổ phần (có
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh).
Mọi hoạt động cho thuê, cầm cố, thế chấp, nhượng
bán, thanh lý TSCĐ phải theo đúng các quy định của pháp luật hiện hành; DN phải
thực hiện việc quản lý đối với những TSCĐ đã khấu hao hết nhưng vẫn tham gia
vào hoạt động kinh doanh như những TSCĐ thông thường.
Thời gian trích khấu hao của TSCĐ căn cứ vào giá
trị, giá bán của TSCĐ cùng loại mới 100% (hoặc của tài sản tương đương) và thời
gian trích khấu hao ban hành tại Phụ lục của Thông tư.
DN chỉ được thay đổi thời gian trích khấu hao TSCĐ
một lần đối với một tài sản. Việc kéo dài thời gian trích khấu hao của TSCĐ bảo
đảm không vượt quá tuổi thọ kỹ thuật của TSCĐ và không làm thay đổi kết quả
kinh doanh của DN từ lãi thành lỗ hoặc ngược lại tại năm quyết định thay đổi.
DN tự xác định thời gian trích khấu hao của TSCĐ vô hình nhưng tối đa không quá
20 năm.
Bộ Tài chính cũng quy định 3 phương pháp trích khấu
hao TSCĐ:
i)
Phương pháp khấu hao đường thẳng;
ii)
Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều
chỉnh; và
iii) Phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản
phẩm. Trên cơ sở đó, DN tự quyết định phương pháp trích khấu hao, thời gian
trích khấu hao TSCĐ theo quy định tại Thông tư này và thông báo với cơ quan
thuế trực tiếp quản lý trước khi bắt đầu thực hiện.
Phương pháp trích khấu hao áp dụng cho từng TSCĐ mà
DN đã lựa chọn và thông báo cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý phải được thực
hiện nhất quán trong suốt quá trình sử dụng TSCĐ. Trường hợp đặc biệt cần thay
đổi phương pháp trích khấu hao, DN phải giải trình rõ sự thay đổi về cách thức
sử dụng TSCĐ để đem lại lợi ích kinh tế cho DN. Mỗi TSCĐ chỉ được phép thay đổi
một lần phương pháp trích khấu hao trong quá trình sử dụng và phải thông báo
bằng văn bản cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp.
Như vậy, về cơ bản, Thông tư số 45/2013/TT-BTC mang
tính kế thừa Thông tư số 203/2009/TT-BTC ngày 20/10/2009 áp dụng cho kỳ tính
thuế năm 2012 trở về trước. Tuy nhiên, Thông tư số 45/2013/ TT-BTC đã tạo ra
một số điểm nhấn khác biệt sau:
+ Về giá trị của tài sản, Thông tư 45/2013/TT-BTC
được xác định từ 30 triệu đồng trở lên. Đối với tài sản là “Quyền sử dụng đất
thuê” trước ngày có hiệu lực của Luật Đất đai năm 2003 (ngày 1/7/2004) đã trả
tiền thuê đất cho cả thời gian thuê hoặc đã trả trước tiền thuê đất cho nhiều
năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất 5 năm, được cơ quan
có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được ghi nhận là TSCĐ
vô hình.
+ Kể từ năm tính thuế 2013, quyền sử dụng đất lâu
dài không được trích khấu hao và phân bổ vào chi phí được trừ khi xác định thu
nhập chịu thuế. Quyền sử dụng đất có thời hạn nếu có đủ hóa đơn chứng từ và
thực hiện đúng các thủ tục theo quy định, có tham gia vào hoạt động sản xuất
kinh doanh thì được phân bổ dần vào chi phí được trừ theo thời hạn được phép sử
dụng đất ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trừ trường hợp quyền sử
dụng đất giao thu tiền có thời hạn được trích khấu hao để tính vào chi phí hợp
lý khi tính thuế thu nhập DN.
+ Chi phí thành lập DN, đào tạo nhân viên, quảng cáo
phát sinh trước khi thành lập DN; chi phí cho giai đoạn nghiên cứu, chuyển dịch
địa điểm, chi phí mua để có và sử dụng các tài liệu kỹ thuật, bằng sáng chế,
giấy phép chuyển giao công nghệ, nhãn hiệu thương mại, lợi thế kinh doanh không
phải là TSCĐ vô hình được phân bổ dần vào chi phí kinh doanh của DN trong thời
gian tối đa không quá 3 năm. Trường hợp công ty cổ phần được chuyển đổi từ DN
100% vốn Nhà nước phải thực hiện phân bổ giá trị lợi thế kinh doanh theo quy
định tại Thông tư số 138/2012/TT-BTC ban hành ngày 20/8/2012.
+ DN tự quyết định phương pháp trích khấu hao, thời
gian trích khấu hao TSCĐ theo quy định tại Thông tư số 45/2013/TT-BTC và thông
báo cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý trước khi bắt đầu thực hiện. Phương pháp
trích khấu hao áp dụng cho từng TSCĐ phải được thực hiện trong suốt quá trình sử
dụng TSCĐ. Trường hợp thay đổi phương pháp trích khấu hao, DN phải giải trình
về cách thức sử dụng TSCĐ để đem lại lợi ích kinh tế cho DN và chỉ được phép
thay đổi một lần. DN phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan thuế quản lý trực
tiếp trước khi thay đổi.
Ngoài ra, đối với các công trình xây dựng cơ bản
hoàn thành đưa vào sử dụng, DN đã hạch toán tăng TSCĐ theo giá tạm tính do chưa
thực hiện quyết toán. Khi quyết toán công trình xây dựng cơ bản hoàn thành có
sự chênh lệch giữa giá trị tạm tính và giá trị quyết toán, DN phải điều chỉnh
lại nguyên giá TSCĐ theo giá trị quyết toán đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt. DN không phải điều chỉnh lại mức chi phí khấu hao đã trích kể từ thời
điểm TSCĐ hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng đến thời điểm quyết toán được
phê duyệt. Chi phí khấu hao sau thời điểm quyết toán được xác định trên cơ sở
lấy giá trị quyết toán TSCĐ được phê duyệt trừ (-) số đã trích khấu hao đến
thời điểm phê duyệt quyết toán TSCĐ chia (:) thời gian trích khấu hao còn lại
của TSCĐ theo quy định.
Đây là nội dung hoàn toàn mới trong quản trị chi phí
DN. Trước đây, do Thông tư số 203/2009/ TT-BTC không nêu rõ nên sau khi công
trình xây dựng cơ bản được cấp có thẩm quyền phê duyệt quyết toán, DN phải điều
chỉnh lại chi phí khấu hao đã trích kể từ thời điểm TSCĐ hoàn thành, bàn giao
đưa vào sử dụng đến thời điểm quyết toán được phê duyệt.
Những nội dung sửa đổi và bổ sung nêu trên chắc chắn
sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản trị chi phí và hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của các DN từ năm 2013. Do đó, trong thời gian sắp tới các DN
cần chủ động điều chỉnh quy định về quản lý TSCĐ trong đơn vị mình, đồng thời
bổ sung, nâng cấp phầm mềm phân hệ kế toán TSCĐ cho phù hợp với Thông tư số
45/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 6 – 2013